Sau 35 tháng triển khai thi công xây dựng, ngày 04/01 vừa qua, Công ty Cổ phần 30/4 Quảng Ngãi đã tổ chức lễ khánh thành, đưa vào vận hành, khai thác dự án thủy điện Sơn Trà 1 với tổng vốn đầu tư trên 2.000 tỷ đồng.
Dự án thủy điện Sơn Trà 1 là công trình thủy điện lớn thứ 2 trên địa bàn tỉnh được xây dựng trên địa bàn xã Sơn Lập (Sơn Tây) và xã Sơn Kỳ (Sơn Hà) tổng vốn đầu tư dự án 2.145 tỷ đồng, quy mô công trình gồm 2 nhà máy: Thủy điện Sơn Trà 1A và Thủy điện Sơn Trà 1B.
Dự án được UBND tỉnh Quảng Ngãi cấp giấy chứng nhận đầu tư điều chỉnh lần 2 vào tháng 1.2015, được Bộ Công thương phê duyệt điều chỉnh quy hoạch thủy điện nhỏ tỉnh Quảng Ngãi tại Quyết định số 674/QĐ-BCT ngày 23/01/2015.
Dự án được khởi công năm 2015, gồm 2 nhà máy: Thủy điện Sơn Trà 1A và Thủy điện Sơn Trà 1B, với công suất 60MW (mỗi nhà máy 30MW), tổng sản lượng điện bình quân hàng năm gần 220 triệu kWh.
Để hoàn thành công trình, đơn vị thi công đã phải đào trên 1,2 triệm m3 đất, đá; sử dụng gần 180 nghìn m3 bê tông cốt thép; thiết bị cơ khí thủy công 1.600 tấn; thiết bị cơ điện nhà máy 2.500 tấn. Đặc biệt, tuyến hầm dẫn với tổng chiều dài (bao gồm cả hầm chính và hầm phụ) là 7.732m. Thiết bị chính của nhà máy do nhà thầu Voith Hydro (Ấn Độ) cung cấp.
Ông Đinh Gia Nội- Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần 30/04 cho biết, sản lượng điện năm 2018 của Thủy điện Sơn Trà 1 khoảng 62 triệu kWh, doanh thu mang lại từ phát điện khoảng 98 tỷ đồng đóng góp vào ngân sách 17,6 tỷ đồng. Trong thời gian tới dự kiến tổng sản lượng điện bình quân hằng năm khoảng 219,8 triệu kWh đạt doanh thu bình quân hằng năm khoảng 268 tỷ đồng và nộp ngân sách địa phương khoảng 55 tỷ đồng/năm.
Phát biểu tại lễ khánh thành, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Nguyễn Tăng Bính cho rằng việc đưa vào vận hành nhà máy sẽ bổ sung thêm nguồn điện năng cho hệ thống điện quốc gia, đồng thời tăng mức đóng góp ngân sách, góp phần tăng trưởng kinh tế Quảng Ngãi. Tuy nhiên chủ đầu tư cần thực hiện tốt các quy trình vận hành hồ chứa đã được các cấp thẩm quyền phê duyệt để góp phần giảm lũ cho vùng hạ du trong mùa lũ, góp phần phát triển kinh tế-xã hội, cũng như tích cực tham gia nhiều chương trình xã hội vì cộng đồng do địa phương phát động.